FORUM DIỄN ĐÀN MUA BÁN RAO VẶT _ TỐI ƯU HOÁ GOOGLE
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Bệnh Vẩy nến Sinh bệnh học và thuốc điều trị

Go down

Bệnh Vẩy nến Sinh bệnh học và thuốc điều trị Empty Bệnh Vẩy nến Sinh bệnh học và thuốc điều trị

Bài gửi by thienquang Sat 6 Apr - 23:32

Bệnh Vẩy nến Sinh bệnh học và thuốc điều trị
I. Đại cương
Bệnh vẩy nến
một bệnh da mạn tính do viêm và chưa thể chữa khỏi hoàn toàn. Bệnh rất
thường gặp, chiếm 2-3% dân số thế giới. Hiện nay, có rất nhiều phương
pháp điều trị nhưng bệnh thường kháng trị hoặc dễ tái phát sau khi ngưng
sử dụng thuôc. Các thuốc Điều trị Vẩy nến
hệ thống trước đây như methotrexate, cyclosporin và retinoids có nhiều
độc tính và tác dụng phụ nên người thầy thuốc cần phải theo dõi sát
những bệnh nhân sử dụng các thuốc này. Nguyên nhân của vẩy nến hiện nay
được chứng minh có liên quan đến đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào
và dấu ấn của cytokine. Vì vậy, các thuốc điều chỉnh miễn dịch chọn lọc
với độc tính ít hơn được xem như một thế hệ trị liệu mới trong việc
kiểm soát và chữa lành vẩy nến.
II. Nhắc lại các yếu tố liên quan đến vẩy nến

Yếu tố di truyền:
Có hai kiểu bệnh rõ ràng trong Bệnh Vẩy nến:
kiểu khởi phát sớm và kiểu khởi phát muộn. Vẩy nến khởi phát sớm thường
gặp ở độ tuổi 16-22. Loại này có diễn tiến bất ổn và khuynh hướng lan
rộng toàn thân. Loại này có liên quan mạnh đến tính di truyền. Trái lại,
vẩy nến khởi phát muộn thường gặp ở độ tuổi 57-60. Loại này thường nhẹ
và khu trú. Loại này thường ít có liên quan mạnh với tính di truyền như
loại khởi phát sớm.
Yếu tố ngoại sinh:
Nhiều yếu tố môi trường cũng góp phần trong sinh bệnh học của vẩy nến.
Các yếu tố ngoại sinh như chấn thương, stress, bỏng nắng, phẫu thuật,
thuốc và nhiễm trùng làm khởi phát bệnh ở những người có sẵn yếu tố di
truyền tiềm tàng. Các yếu tố này còn làm bệnh nặng thêm hoặc tái phát
nặng nề.
III.Sinh bệnh học miễn dịch của vẩy nến
Bệnh vẩy nến được
xem như một tình trạng tăng sinh quá mức của các keratinocyte ở thượng
bì dưới sự kích thích của các lymphocyte ở bì. Cơ chế chính xác và dây
chuyền tương tác giữa các keratinocyte và các tế bào miễn dịch vẫn chưa
được hiểu một cách đầy đủ. Tuy nhiên, nhiều bằng chứng cho thấy các tế
bào T hoạt hóa là những chất điều chỉnh miễn dịch chủ yếu trong sinh
bệnh học của Vẩy nến.
Thoạt đầu, các tế bào T hoạt hóa xâm nhập vào lớp bì ở vùng da tổn
thương nhờ các phân tử kết dính tế bào và cytokine tiền viêm
interleukin-8 (IL-Cool. Đa số tế bào T ở thượng bì là loại CD4+helper. Các
tế bào T bị kích hoạt bởi các tế bào nhận diện kháng nguyên. Quá trình
này sản xuất ra nhiều loại cytokine. Các tế bào T sản xuất IL-2 và
interferon-y (INE-y) được gọi là tế bào Th1 và miễn dịch trung gian tế
bào. Ngược lại, các tế bào T sản xuất IL-4, IL-5 và IL-10 được gọi là
các thế bào Th2 và góp phần trong miễn dịch cơ thể. Các cytokime Th1 là
những chất tiền viêm, còn các cytokine Th2 là những chất chống viêm.
Trong vẩy nến, loại Th1 chiếm ưu thế còn Th2 ít hơn.
IV. Mục tiêu điều trị hiện nay
Mục tiêu điều trị hiện nay
Mục tiêu điều trị Bệnh vẩy nến hiện nay chủ yếu dựa vào những điểm chính sau:
-Ngăn cản sự xâm nhập của các tế bào T hoạt hóa từ tế bào nội mô vào thượng bì và bì;
-Ngăn cản quá trình sản xuất cytokine Th1;
-Trực tiếp kháng lại các đáp ứng của cytokine Th1;
Vẩy nến hiện nay vẫn chưa thể chữa khỏi hoàn toàn mà chỉ làm giảm, sạch
thương tổn và kéo dài thời gian tái phát. Có nhiều phương pháp điều trị
và dựa vào tuổi, phái, dạng lâm sàng, vị trí sang thương cũng như sự lan
tỏa của bệnh.
Điều trị tại chỗ thường được sử dụng trong vẩy nến mức độ nhẹ và trung bình. Bênh vẩy nến mức độ trung bình và nặng có thể phải sử dụng quang trị liệu hoặc thuốc hệ thống.
V. Điều trị tại chỗ
Có rất nhiều Thuốc chữa bệnh vẩy nến được sử dụng tại chỗ. Gần đây, một số loại thuốc mới như tazaroten và tacrolimus cũng có hiệu quả trong Điều trị vẩy nến.
Thuốc điều trị tại chỗ :Corticoisteroid : Dễ sử dụng, tác dụng nhanh
.Calcipotriene: Dung nạp tốt . Anthralin . Acid salicylic . Tazarotene
VII. Điều trị hệ thống cổ điển
Ciclosporin: Hiệu quả cao . Methotrexate . Acitretin . Fumaric acid ester . Hydroxyurea . Dapson
VIII. Một số thuốc mới trong điều trị bệnh vẩy nến: Alefacept
.Efalizumab (anti-CD11a) .OKTcdrα (anti-CD4) .CTLA4-Ig .Infliximab
(anti TNF-α) .Etanercept (anti TNF-α) .Adalimumab (anti TNF-α) .IL-10
.Onercept (anti TNF-α) .AYURDERME và Kliquidclorophyl-A
Trong đ ó : Alefaceft là một protein tái kết hợp, bao gồm đoạn tận cùng
IFA-3 (kháng nguyên liên quan chức năng bạch cầu) và đoạn Fc của IgGI
của người. Thuốc này được Cơ Quan Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) công
nhận trong điều trị vẩy nến mảng trung bình và nặng vào tháng 1/2003.
Efalizumab là một kháng thể đơn clon IgG1 được nhân hóa trực tiếp chống
lại bán đơn vị CD11a trong LFA-1. Efalizumab được điều chế từ tế bào
buồng trứng chuột đồng Trung Quốc và được nhân hóa nhằm làm giảm tính
sinh miễn dịch. Thuốc này được FDA công nhận trong Điều trị vẩy nến vào tháng 10/2003.
Etanerceft là một phân tử tái kết hợp bao gồm thụ thể TNF-ap75 của người
(yếu tố hoại tử khối u) và đoạn Fc của IgG1 của người. Etanerceft là
một protein hợp chất nhị trùng được điều chế từ tế bào buồng trứng chuột
đồng Trung Quốc và được công nhận trong điều trị viêm khớp dạng thấp,
viêm khớp vẩy nến và viêm cứng cột sống.
Rosiglitazone maleate là một thiazolidinedione uống được Hoa Kỳ công
nhận trong điều trị đái tháo đường loại 2 và hiện đang được nghiên cứu
trong điều trị vẩy nến. Thuốc này là một đồng vận mạnh và chọn lọc của
PPAR-g (thụ thể hoạt hóa yếu tố tăng sinh peroxisome). Chất này có tác
dụng ức chế sản xuất cytokine và thúc đẩy sự biệt hóa tế bào.
Tazarotene là một retinoid, gần đây được công nhận trong điều trị vẩy
nến mảng với dạng uống. Tazarotene chuyển hóa thành chất hoạt động, acid
tazarotenic và có thời gian bán hủy từ 7 – 12 giờ. Vì vậy, tazarotene
có thể là thuốc thay thế an toàn trong Điều trị vẩy nến bằng retinoid hệ thống đối với những phụ nữ ở tuổi sinh đẻ.
Thuốc chữa bệnh vẩy nến AYURDERME và Kliquidclorophyl-A ;Thuốc thảo dược cho hiệu quả rất tốt .Tỷ lệ bệnh nhân khỏi bệnh cao đặc biệt không có tác dụng phụ
IX. Kết luận
Bệnh vẩy nến
là do phản ứng miễn dịch gây viêm. Các thuốc ức chế miễn dịch hiện nay
có hiệu quả trong việc kiểm soát vẩy nến đến một mức độ nhất định nhưng
cũng còn nhiều bất lợi như độc tính cao và dễ tái phát khi ngưng điều
trị. Thế hệ điều trị mới tập trung chủ yếu vào các mục tiêu chuyên biệt
trong phản ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Chúng ta có thể hy vọng
trị liệu như thế sẽ giúp bệnh nhân dung nạp tốt hơn và không còn những
tác dụng phụ nghiêm trọng như độc gan, độc thận và ức chế tủy.
Kiêng ky Và hạn chế:
Thịt, sữa, trứng: vì chứa nhiều arachidon là chất xúc tác cho phản ứng
viêm tấy không chỉ ngoài da, mà trong khớp, trên thần kinh ngoại biên…
Rượu bia: vì độ cồn là đòn bẩy cho phản ứng thoái biến các loại chất đạm
có tác dụng sinh dị ứng. Hơn nữa, tiến trình giải độc rượu của gan bị
trì trệ rất nhiều ở người có cơ địa vảy nến.
Các bạn có thể tham khảo kỹ hơn trên hai wedsite chuyên nghành:
Website tham khảm về sản phẩm : Thày thuốc giỏi - http://thaythuocgioi.vn

Website chuyên nghành thuốc và biệt dược::Thuốc chữa bệnh - http://thuocchuabenh.com.vn
Cần tham khảo ý kiến BS . Tuyệt đối Không tự ý mua thuốc về điều trị
Tháng 6 năm 2010 TS Thiên Quang ĐT 0972690610
Bệnh Vẩy nến Sinh bệnh học và thuốc điều trị Vaynen_1Bệnh Vẩy nến Sinh bệnh học và thuốc điều trị Vynnlng

thienquang

Tổng số bài gửi : 111
Join date : 06/04/2013

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết